Tập thở khí công Tịnh Độ vừa niệm Phật được nhiếp

Tập thở khí công Tịnh Độ vừa niệm Phật được nhiếp tâm, vừa tăng cường khí oxy để chữa bệnh

BÀI TẬP KHÍ CÔNG 1: TẬP TRONG 1 TUẦN

Niệm Nam Mô A Di Đà Phật theo Khí công Tịnh Độ là niệm kim cang trì miệng niệm nhỏ tiếng tai đủ nghe nhắm mắt theo dõi tiếng niệm hòa cùng hơi thở tại Đan Điền Thần đặt bàn tay dương dưới mỏm xương ức. Bàn tay dương của nam là bàn tay trái, của nữ là bàn tay phải, đặt nhẹ dưới mỏm xương ức dưới qủa tim, tay kia đặt chồng lên bên ngoài. Người nào ngắn hơi thì niệm 1 câu Nam Mô A Di Đà Phật là 1 hơi cho quen dần dần hơi dài hơn thì 2 câu một hơi và cuối cùng hơi dài niệm đủ 3 câu một hơi. Công dụng nhiếp tâm, hơi thở dài không mệt, tăng cường oxy, tăng hồng cầu, da dẻ hồng hào, cơ thể và bàn tay nóng ấm, ổn định áp huyết cao hay thấp trở về trung bình, làm hạ đường huyết, tiêu hóa tốt. Niệm ra tiếng theo kim cang trì là thể động. Tối trước khi đi ngủ, dùng Ý niệm thuộc thể tĩnh, miệng không niệm, là mở máy niệm Phật tập thở theo tiếng niệm, hay tự mình theo dõi hơi thở theo Ý niệm Nam Mô A Di Đà Phật, dần dần sẽ rơi vào giấc ngủ thiền, tần số sóng não khi thức là sóng alpha, đi dần vào giấc ngủ là sóng theta mà còn tỉnh thức thì 1 giờ thiền tương đương với 2 giờ ngủ bình thường, nên cơ thể không mệt mỏi.

KẾT QỦA SAU KHI TẬP :

Kiểm chứng lại áp huyết 2 tay trước và sau khi tập, sẽ thấy nhịp tim tăng, tăng thân nhiệt, bàn tay ấm, tiêu hóa thức ăn bụng nhẹ, đường huyết trước khi tập cao, sau tập đường huyết giảm, sau 30 phút nhịp tim trở về tiêu chuẩn. Ai có đường huyết thấp thì tập không có kết qủa, nên trước khi tập đường huyết trên 12mmol/l, sau tập, đường huyết xuống 8mmol/l mới đủ giữ ấm thân nhiệt, không bị bệnh suy tim mạch làm tiêu cholesterol và không bị máu đông tạo thành mỡ xấu triglycerid, nên những người thiếu đường, kiêng đường, cần phải uống thêm đường cát vàng cho tăng đường huyết, để đủ nguyên liệu đường chuyển hóa thức ăn thành máu, mà không bị thiếu máu và không bị thức ăn biến thành mỡ.

BÀI TẬP THỞ 2: CÔNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP THỞ PHỒNG-XẸP

1-Giữ nguyên áp huyết không thay đổi thờ

1-1 A-Khi niệm kim cang trì 3 câu Nam Mô A Di Đà Phật, thả lỏng người, bàn tay vẫn đặt ử Đan Điền Thần như BÀI 1

a-Đối với người ngắn hơi: Niệm câu 1 Nam Mô A Di Đà Phật, thì tập cho Đan Điền Thần phồng lên nhẹ cho hết câu 1, bật đầu câu niệm 2 cho Đan Điền Thần xẹp hóp vào, câu 3 lại co phồng lên, câu 1 cho xẹp xuống, câu 2 cho phồng lên, câu 3 cho xẹp xuống

b-Đối với người dài hơi, thì câu 1 và 2 niệm cho đan điền thiền phồng- câu 3 và 1 cho đan điền xẹp, ngườo giỏi hơn thì cho 3 câu phồng-3 câu xẹp

B-Khi dùng Ý, ngậm miệng, niệm trong đầu cũng theo 3 câu niệm Phật, 1 phồng-1 xẹp, hay 2 phồng-2 xẹp, hay 3 phồng-3 xẹp 2-Muốn làm tăng áp huyết thấp lên ít, phương pháp phồng 2-xẹp 1: Cũng niệm kim cang trì, hay ngậm miệng niệm trong đầu như trên nhưng câu 1 và 2 phông, câu 3 xẹp. 3-Muốn làn hạ áp huyết cao xuống thấp ít , phương pháp phồng 1-rồi buông lỏng không có thì xẹp 4-Muốn làm áp huyết tăng cao nhiều, dùng phương pháp phồng 3-rồi buông lỏng xẹp tự động, rồi lại phồng theo 3 câu niệm, rồi lại buông lỏng 5-Muốm làn hạ áp huyết nhanh dùng phương pháp xẹp 3-rồi buông lỏng không có thì phồng Kiểm chứng kết qủa sau khi tập so sánh với các thông số trước khi tập : Lúc nào công phu tu đường huyết bị tụt mất khoảng 100mg/dl, nếu trước khi công phu hay tập thở mà không đủ đường thì không ngồi tu lâu được, khi cơ thể mất đường, sẽ hụt hơi, mệt, buồn ngủ hôn trầm, bàn tay lạnh, thân nhiệt giảm, nhịp tim bị tụt thấp. Còn bình thường, sau khi tập, bàn tay nóng ắm, tăng thân nhiệt, bàn tay nóng ấm hơn, tăng nhịp tim, tăng pH, còn ạp huyết tâm thu sẽ tăng hay giảm theo mục đích của phương pháp thở, tuy nhiên tâm trương được điều chỉnh khi tâm trương cao do thức ăn không tiêu được chuyển hóa hết thì tâm trương hạ thấp, hay thức ăn trong bao tử lạnh không hấp thụ chuyển hóa thì tâm trương thấp được sẽ nhờ cách thở mà tự động điều chỉnh tăng lên cao hơn.

BÀI TẬP 3. PHẬT THÔNG THIÊN MÔN THEO PHƯƠNG PHÁP CON THOI

Vùng trên giữa đỉnh đầu có một cửa vô hình thoát ra ngoài trời gọi là Thiên Môn, Bài học 1 và 2 chúng ta đã tập niệm Nam Mô A Di Đà Phật theo kim cang trì, miệng niệm nhỏ tiếng vừa đủ tai nghe, và tưởng tượng đưa âm thanh và ánh sáng hào quang của Phật vào trong tim, đặt bàn tay nơi đan điền thần để theo dõi kết qủa tập ở nơi mỏm xương ức dưới qủa tim cũng là nơi thu phát thần lực duy trì sự sống của con người giúp chức năng hoạt động của tim luôn khỏe mạnh, làm tan máu mỡ đông hay máu ứ tắc hay mỡ bao tim làm nghẹt gây ra bệnh tim. Theo Tịnh độ, là 1 trong 6 nẻo luân hồi khi cận tử nghiệp đến, sau khi linh hồn thoát ra khỏi cơ thể, thân thể lạnh nhưng có 1 trong 6 điểm còn hơi ấm là nơi linh hồn đầu thai thì linh hồn nào thoát ra từ tim sẽ trở lại làm người, là những người thiện lương giữ 5 giới làm thập thiện. Linh hồn nào thoát ra từ trán sẽ sanh thiên là cõi lành, thoát ra khỏi đỉnh đầu ấm nóng về cõi Phật. Bụng ấm sẽ vào cõi ngạ qủy, Đầu gối ấm vào cõi súc sanh, dưới chân vào cõi địa ngục. Khi huyệt Thiên Môn mở, trường sinh nhân điện gọi là mở Luân Xa 7 với mục đích thu nạp năng lượng vũ trụ mà không biết năng lượng ngoài không gian có rất nhiều tầng năng lượng tốt và xấu ở cõi ta bà của các thiện thần và ác thần và cả ma qủy, ngay cả linh hồn người chết chưa siêu thoát nhập vào, mượn thân xác mình làm nhà trú ngụ ở lại trần gian, các thầy mở luân xa cho đệ tử gặp trường hợp đệ tử bị vong nhập cũng không biết chữa. Nên phải để ý mình được các thầy mở luân xa cho mình ở cảnh giới nào, nếu các thầy còn phá giới, ăn mặn, rượu chè cờ bạc, trai gái, tham sân si, thì luân xa của mình được mở cũng sẽ thuộc cảnh giới đó, còn sức khỏe các thầy còn bệnh thì các thầy lại truyền bệnh cho mình, rất nguy hiểm, từ đó các vong sẽ nhập vào mình. Khác với khí công tịnh độ nhờ tha lực của Phật qua ánh hào quang thông Thiên Môn cho mình khi mình niệm 6 chữ Nam Mô A Di Đà Phật, điểm từ tim gọi là điểm B lên đỉnh đầu khoảng 60cm là điểm từ tim thoát ra, Tưởng tượng điểm trên đỉnh đầu cũng cao 60cm là điểm A. Chúng ta khi niệm 6 chữ, chia điều cho 6 chữ, tưởng tượng từ điểm A niệm chữ Nam Mô A thì bụng phồng lên đưa khí xuống đến tim điểm B, rồi chữ Di Đà Phật từ tim điểm B bụng xẹp xuống lại phóng lên đỉnh đầu điểm A cho tà khí trong người thoát ra. Khí vào-khí ra, hào quang vào, đem tà khí trong người ra, đều đặn theo tiếng niệm Phật, theo phồng-xẹp nơi đan điền thần, tạm gọi là phương pháp con thoi. Khí đan điền thần phồng lên-xẹp xuống, cho hào quang của Phật vào-ra đều theo phương pháp 1-1 thì áp huyết bình thường, tập lâu thỉ bàn tay và thân người tăng nhiệt độ làm ấm nóng lòng bàn tay, và chỉ làm tăng nhịp tim trong lúc tập.Trước khi tập, dùng ngón tay gõ lên Thiên Môn để biết cửa ra vào, khi tập có cảm nhận khí thoát ra, khí đi vào, là Luân Xa đã được Phật mở bằng hào quang của Phật thì không bị tà khí hay vong nhập.

BÀI TẬP 4: TẦM QUAN TRỌNG CỦA THIÊN MÔN THU NẠP NĂNG LƯỢNG HÀO QUANG

Đức Quán Thế Âm Bồ Tát đã dạy, ai niệm Vô Lượng Quang Như Lai Thần Chú sẽ có hào quang của Đức Từ Phụ A Di Đà tụ trên đỉnh đầu, chỉ có nghĩa là dấu hiệu của Phật tử Tịnh độ, nhưng khi cận tử nghiệp đến có vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc được không còn tùy vào thuận duyên hay bị chướng duyên trở ngại do mất trí nhớ để niệm Phật, tai điếc không thể nghe tiếng hộ niệm, do thân thể đau đớn tâm chỉ nghĩ đến chỗ đau, do quyến luyến người thân….những trở ngại này cũng chính là những oan gia, tạo ra lục đạo luân hồi. Cho nên dù có hào quang Phật tụ trên đỉnh đầu mà chưa thông cửa Thiên Môn để huân tập lâu ngày, do mình không biết cách thông Thiên Môn thì cũng chưa bảo đãm vãng sanh về Cực Lạc. Vì nếu cận tử nghiệp mình bị đau ở đâu thì luôn nghĩ về điểm đau, theo khí công tịnh độ, Ý dẫn đầu các phát, ý để tâm ở đâu, thì khí sẽ đến đó, khí đến đâu máu sẽ đến đó, gan chứa máu, tàng hồn, có nghĩa hồn sẽ ở đó, nên đau ở bụng, hồn xuất ra khỏi bụng đọa lvề cõi ngạ qủy, đau ở đầu gối, hồn xuất ra khỏi đầu gối đọa làm súc sanh, đau dưới chân, hồn xuất ra đọa vào địa ngục. Kinh nghiệm theo giáo lý Phật gọi là tâm viên, ý mã, là tâm đi đến đâu, ý theo đến đó tạo ra các pháp lành hay dữ đều do tâm, ý khác là ngoài tâm không có Phật, ý khác nữa là vạn pháp do tâm sanh, vạn pháp do tâm diệt. Do đó khi cận tử nghiệp, thay vì để tâm chạy lăng xăng, thì trụ ý về tim có nghiĩa là vạn pháp do tâm diệt, ngoài tâm không nghĩ đến điểm nào khác thì hồn xuất ra tái sanh làm người. Khác với những ai đã niệm Nam Mô A Di Đà Phật để thông cửa Thiên Môn và dùng Vô Lượng Thọ Thần Chú dẫn hào quang của Phật vào tim đi theo máu tuần hoàn đi nuôi khặc các tế bào toàn thân, các tế bào đều có chứa linh hồn được niệm Phật chung, các chủng tử lành là các tế bào lành được tăng trưởng, các chủng tử xấu bệnh hoạn được hào quang chữa lành không làm cho cơ thể chúng ta bị bệnh,các chủng tử oan gia trong cơ thể muốn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc sẽ theo hơi thở ra của tiếng niệm Phật theo hào quang của Phật xuất ra khỏi Thiên Môn theo Phật về cõi Cực Lạc trước, đến khi chúng ta bỏ thân xác vào lúc cận tử nghiệp đến, thân thể không đau bệnh, linh hồn vẫn tỉnh táo, tự tại xuất ra khỏi Thiên Môn khi Phật và Thánh chúng đến đón.

CÁCH TẬP: Trong thời khóa cộng tu hàng ngày, khi niệm Phật, tụng Chú Đại Bi, Chú Vãng Sanh, Chú Vô Lượng Thọ Chân Ngôn, chúng ta đều niệm theo phương pháp con thoi phồng-xẹp ỡ đan điần thần, dẫn khi vào-ra Thiên Môn, vừa tăng cường năng lượng cho cơ thể khỏe mạnh, thân không bệnh tật, tâm hồn tỉnh táo không hôn mê, niệm chú, niệm Phật tiễn đưa các chủng tử oan gia trái chủ theo hào quang của tiếng niệm Phật về Cực Lạc trước, để sau này mình được tự tại theo Phật và Thánh chúng về Cực Lạc sau.

BÀI TẬP 5: PHƯƠNG PHÁP THỞ TỰ ĐỘ VÀ ĐỘ THA

Trong thời khóa Cộng tu Khí Công Tịnh Độ, có đọc chú Đại Bi, Chú Vãng Sanh, Vô Lượng Tho Như Lai Thần Chú, và niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Nếu miệng chỉ đọc thì cũng giống như mở máy ph́át ra tiếng để nghe thì không phải là khí công tịnh độ, khí công tịnh độ là phải nhắm mắt lắng nghe để dùng ý dẫn khí đưa tiếng niệm vào-ra theo phương pháp con thoi theo 2 mục đích:

1-Phương pháp thở Tự Độ, chỉ đưa các câu chú, câu niệm Phật từ ngoài điểm A vào tim điểm B : Tự độ có nghĩa là đưa tiếng niệm Phật và ánh sáng hào quang của Phật vào tim qua cửa Thiên Môn, để lan tỏa sự gia hộ của Phật đối với các chủng tử tế bào có trong máu đang theo dòng máu tuần hoàn khắp toàn thân. Khi đưa mỗi câu chú, mỗi câu niệm Phật vào cơ thể thì đan điền thần cứ phồng lên từ từ theo từng câu để tích lũy nhiều năng lượng hào quang, để các chủng tử tế bào tiếp nhận, được tu theo tiếng niệm Phật hòa với hơi thở của mình mỗi ngày để cùng nhau tiến hóa

2-Phương pháp thở Độ Tha, chỉ đưa các câu chú, các câu niệm Phật từ tim điểm B ra khỏi cửa Thiên Môn. Trước khi thở Độ Tha, chụ́ng ta nguyện hồi hướng công đức xin Đức Từ Phụ tiếp dẫn cho các vong nhập, ma chướng, nghiệp chướng, oan gia có trong cơ thể theo Phật về Tây Phương Cực Lạc. Cách thở : Khi đưa mỗi câu chú, mỗi câu niệm Phật ra khỏi Thiên Môn thì đan điền thần càng ngày càng xẹp, Có thể thở 1 biến vào là Tự Độ, 1 biến ra là Độ Tha. Hay tập Tự Độ 7 biến, tập Độ Tha 7 biến. Tập mỗi ngày thì các chủng tử tế bào trong cơ thể dần dần cũng trở thành phật tử thiện lành cùng với mình tu mỗi ngày, thì khi báo thân này kết thúc thì cũng được Đức Từ Phụ A Di Đà Phật và thánh chúng tiếp dẫn, không còn bị các chủng tử xấu hay oan gia trái chủ gây bệnh đau đớn, sẽ được an nhiên tự tại vãng sanh. Cách dễ nhất vừa Tự Độ, vừa Độ Tha là : Khi Tự Độ niệm 3 câu Nam Mô A Di Đà Phật vào đan điền thần phồng lên từ từ thu nạp năng lượng hào quang. Khi Độ Tha, niệm 3 câu ra thì đan điền thần từ từ xẹp xuống hết để tiễn đưa các chủng tử tế bào nào muốn theo Phật về Tây Phương Cực Lạc . Ghi chú : Nhiều người theo Nhân Điện được mở luân xa 7 mà bị vong nhập, không biết cách tự chữa, nhờ các thầy Pháp trục vong, hay đóng Luân Xa là một sai lầm lớn, giống như đóng bít lối ra vào cửa Thiên Môn, nhốt cả mình và vong trong cơ thể, và cũng là chặn con đường vãng sanh về Cực Lạc.

BÀI 6: THÔNG THIÊN MÔN BẰNG Ý với 3 câu niệm Nam Mô A Di Đà Phật,

Nhắm mắt cuốn lưỡi đụng lên vòm họng trên, bàn tay dương đặt tại đan điền thần, tai nghe tiếng máy hay tiếng niệm của máy. Câu 1 vào, câu 2 ra, câu 3 vào, câu 1 ra, câu 2 vào, câu 3 ra, câu 1 vào, câu 2 ra, câu 3 vào….cứ 1 câu vào, 1 câu ra.., không cần để ý hơi thở.. Dùng ý dẫn câu 1 từ điểm ngoài đỉnh đầu cao khoảng 0,6m hào quang của Phật phóng xuống huyệt Thiên Môn xuống đan điền thần Dùng ý dẫn câu 2 ra từ đan điền thần lại dẫn qua Thiên Môn lên cao khỏi đ̉nh đầu 0,6m. Dùng ý dẫn câu 3 vào, dùng ý dẫn câu 3 ra,…. Sau khi tập lâu và đều, có cảm giác khí vào trong đầu, đan điền thần và bàn tay ấm nóng, đúng theo lý thuyết đông y khí công là ý đi đến đâu, máu sẽ chạy đến đó, chỗ nào máu chạy đến thì nóng, máu không chạy đến thì lạnh, nên những ai tập mà chưa cảm thấy nóng ắm nơi lòng bàn tay đặt ở đan điền thần là chưa có kết qủa

BÀI 7: THÔNG THIÊN MÔN BẰNG TIẾNG NIỆM TỪNG CÂU NAM MÔ A DI ĐÀ PHẠT

Niệm từng câu nhỏ tiếng tai vừa đủ nghe, không tốn hơi mất sức, gọi là niệm kim cang trì. Trên đỉnh đầu cao khoảng 60cm gọi là điểm A tưởng tượng có 1 đường thẳng chạy qua Thiên Môn nối thẳng với điểm B là nơi bàn tay dương đặt tại Đan Điền Thẩn, ngay dưới mỏm xương ức Niệm câu 1 Nam Mô A Di Đà Phật, ý từ điểm A bắt đầu niệm chữ Nam đi theo đường thẳng xuống điểm B là vừa niệm xong hết 1 câu đi xuống, không chú ý đến hơi thở, mà chú ý tiếng niệm. Niệm câu 2, từ điểm B niệm chữ Nam đi theo đường thắng qua Thiên Môn lên điểm A là hết đến chữ Phật. Niệm câu 3, lại từ điểm A xuống B Trở lại câu 1 từ B lên A, câu 2 từ A xuống B. Cứ 1 câu vào Thiên Môn, 1 câu ra khỏi Thiên Môn, gọi là tập thở thông Thiên Môn, hay tập đóng-mở Thiên Môn, tập lâu dần nhiều ngày thì cửa Thiên Môn nở to rộng dần thì thu hút năng lượng hào quang của Phật vào cơ thể càng nhiều để thanh lọc tế bào cơ thể, tăng hồng cầu, tăng lượng máu , khi dùng câu niệm Phật ra khỏi Thiên Môn thì ý của mình nguyện cho các tế bào oan gia trái chủ trong thân mình theo hào quang của Phật tiếp độ cho các oan gia trái chủ, hay các khí trược thoát ra khỏi cơ thể. Thiên Môn ví như cổ chai, khi trời mưa ví như năng lượng vũ trụ, cổ chai to thì sẽ chứa được nhiều nước, còn cổ chai nhỏ chỉ thu được ít nước. Còn ai không mở được Thiên Môm thì không thu được năng lượng, ví như chai còn đậy nắp, dù có ra hứng nước khi trời mưa, chỉ cảm nhận được nước mưa rơi lộp bộp vào nắp chái, chứ trong chai không chức được giọt nước nào. Nên mọi người lầm tưởng tôi đã được mở luân xa 7, tôi có cảm nhận được năng lượng, nhưng chính sức khỏe mình không có năng lượng để cải thiện, mà lại đi làm thầy chữa bệnh cho người khác bằng năng lượng rồi càng ngay mình cành bị bệnh nặng thêm, thì không phải trong người mình có năng lượng, mà chỉ là bình thông nhau, mình và bệnh nhân chia đều năng lượng, người khỏe thì mất năng lượng, người bệnh yếu thì khỏe hơn trước, mình lại tưởng do mình truyên năng lượng chữa mà bệnh nhân được khoẻ… Trong cơ thể chúng ta có khoảng hơn 40 ngàn tế bào, là những chủng tử có sự sống là có linh hồn, có chủng tử tốt giúp chúng ta khỏe mạnh là những thức ăn thực vật, có chủng tử xấu gây bệnh do từ những thức ăn động vật, khi ăn nhai nuốt chúng vào bụng, mình tưởng tượng như có loại người khổng lồ, nắm người chúng ta trong bàn tay, xé ra từng miếng rồi bỏ vào miệng ăn nhai nuốt, chúng ta đau đớn căm hận muốn trả thù, thì chúng ta sẽ trở thành chủng tử tế bào oan gia chờ cơ hội trả thù khiến cho kẻ đã ăn thịt mình. Khi cận tử nghiệp, lúc lâm chung,, chúng ta dù có tu hành, nhưng không sám hối nghiệp chướng, sám hối các oan gia, không tập đóng mở Thiên Môn thu nạp năng lượng, dân gian gọi là năng lượng vũ trụ bao gồm năng lượng xấu trong vũ trụ, năng lượng của các các thần thiện và ác, khác với khí công tịnh độ, chúng ta thu năng lượng hào quang của Phật A Di Đà để thanh lọc bản thể, thân tâm, cùng khuyến khích oan gia trái chủ hay vong nhập trong thân chúng ta cùng tu chung với chúng ta cải ác theo hào quang của Phật A Di Đà tiếp độ về Tây Phương Cực Lạc trước, đến khi chúng ta bỏ báo thân,, thì thân chúng ta không còn tật bệnh, không hôn mê, hồn thoát ra khỏi đỉnh đầu theo Đức Phật A Di Đà và Thánh Chúng về Tây Phương Cực Lạc. Nếu chúng ta không niệm Phật cầu vãng sanh, không niệm Phật, sám hối các oan gia trái chủ, thì trong giờ phút lâm chung mà bị các oan gia trái chủ trong thân gây ra đau đớn, thì tâm ý chỉ nghĩ đến cái đau, như đau ngực, tái sanh làm người, đau bụng, tái sanh làm ngạ qủy, đau đầu gối tái sanh làm súc sanh, đau dưới chân đọa địa ngục, vì chỉ nghĩ đến cái đau thì ý ở đâu, thì linh hồn sẽ xuất ra ở đó, không còn nghĩ đến Thiên Môn để thoát ra theo Phật về Cực Lạc. Do đó ngày nào tu chúng ta cũng phải tập cho thành thói quen cho thông Thiên Môn.

BÀI 8: VỪA THÔNG THIÊN MÔN VỪA QUÁN HƠI THỞ PHỒNG-XẸP ĐAN ĐIỀN THẦN THEO TIẾNG NIỆM TỪNG CÂU NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

BÀI 7 là chỉ niệm kim cang trì không quán hơi thở, không có hít vào thở ra gì cả. Bài này khó hơn chia ra 3 giai đọan : Giai đoạn 1 : Chỉ nghe máy niệm từng câu, bàn tay dương đặt tại Đan Điền Thần theo dõi nơi này khi máy bắt đầu niệm câu 1 thì mình hơi phình đan điền thần đẩy bàn tay lên cao khoảng 2-3cm, khi câu 2, thì hóp đan điên thần xẹp xuống 2-3cm, rồi câu 3 lại phồng lên, câu 1 lại xẹp xuống, tập nhiều lần cho quen và đều , không bị mệt hay hụt thiếu hơi, không dùng sức ph̀nh qúa hay xẹp qúa. Khi đã quen, thì sang giai đoạn 2 : Giại đoạn 2 : Bắt đầu máy niệm thì mình niệm theo , nhỏ tiếng vừa đủ nghe, kim cang trì, miệng vừa niệm câu 1 , thì đan điền thần phồng theo, câu 2 thì đan điên thần xẹp theo, câu 3 đan điền thần phồng theo, câu 1 đan điền thần xẹp theo, khi đã quen, sang giai đoạn 3. Giai đoạn 3 : Miệng vừa niệm, câu 1 ý́ tưởng tượng bắt đầu thu năng lượng hào quang của Phật từ điểm A vào đan điền điểm B thì phồng lên từ từ. Niệm câu 2 tưởng tượng tà khí trược khí oan gia theo sức đẩy của đan đìền thần đang xẹp xuống đẩy tà khí trược khí, oan gia theo lên ra khỏi Thiên Môn lên điểm A, rồi đến câu 3 lại thu năng lượng vào phồng đan điền chứa năng lượng, trở lại câu 1 cho đan điền xẹp từ từ đẩy trược khí thoát ra Thiên Môn lên điểm A. Cứ tiếp tục từng câu, vừa niệm câu vào thì phồng đan điền, câu ra thì xẹp đan điền, trong khi miệng vẫn niệm 3 câu theo máy đều đều, không phải là hít vào thở ra, vì đang niệm là hơi ra vào tự động , nhưng quan trọng là tập cho đan điền tự phồng lên chứa năng lượng hào quang, cho đan điền xẹp xuống dẫn trược khí hay oan gia trái chủ ra khỏi Thiên Môn, cứ mỗi ngày niệm cho năng lượng hào quang vào, các chủng tử oan gia trái chủ ra theo hào quang của Phật, lâu dần thì cơ thể chỉ còn toàn là thanh khí, giúp cơ thể khỏe mạnh, Kết qủa da dẻ hồng hào, bàn tay ấm, nhịp tim đều, thông Thiên Môn thì không bị nhức đầu, không bị tẩu hoả nhập ma, không bị tăng áp huyết làm vỡ mạnh máu não gây tê liệt, và tập Khí Công Tịnh Độ thì không bị bệnh tiểu đường.

BÀI 9: THÔNG THIÊN MÔN 3 THÌ :VÀO-NGƯNG-RA

Giai đoạn 1: Dùng Ý ; Nghe tiếng máy niệm 3 câu Nam M̀ô A Di Đà Phật Câu 1 ỵ́ đặt tại điểm A trên cao khỏi đầu 60cm cho câu niệm Phật xuống đến Thiên Môn thì ngưng, tưởng tượng Thiên Môn đang mở giãn to rộng ra Câu 2 Ý giữ câu 2 cho khí tụ ở Thiên Môn, có cảm giác đỉnh đầu hơi nóng và hơi căng, Câu 3, Ý tưởng tượng áp lực khí trong đầu phóng lên điểm A để đẩy nhiệt khí ra khỏi đầu và cửa Thiên Môn khép nhỏ lại

Giai đoạn 2: Vừa dùng Ý vừa niệm nhỏ tiếng kim cang trì, mục địch làm mở rộng Thiên Môn và khép lại Thiên Môn Tập cho quen làm ấm nóng đầu nhưng không làm tăng áp huyết hay làm nhức đầu mới là tập đúng

BÀI 10.TẬP THU- PHÓNG NĂNG LƯỢNG DÙNG Ý VÀ KHÍ. THỞ 3 THÌ. THÌ HÍT VÀO-THÌ NGƯNG-THÌ THỞ RA BẰNG MŨI.

Nhắm mắt, cuốn lưỡi lên hàm trên, ngậm miệng, ngửa hai lòng bàn tay đặt trên đùi, nghe tiếng niệm Nam Mô A Di Đà Phật, khi nghe câu 1 thì hí́t thu năng lượng hào quang của Phật từ điểm A trên đỉnh đầu vào điểm B nơi đan điền thần hơi phồng lên. Câu 2 ngưng không thở để giữ khí tại đan điền thần. Câu 3 thở ra cho đan điền thần xẹp xuống cùng lúc tưởng tượng nghĩ đến lòng bàn tay khí đang thoát ra 5 đầu ngón tay và lòng bàn tay theo hơi thở ra. Như vậy câu 1 hít vào bằng mũi từ ngoài Thiên Môn vào đan điền thần Câu 2, ý nghĩ tại đan điền thần để giữ khí, tụ khí. Câu 3, ý nghĩ đến lòng bàn tay và 5 ngón tay, khi thở ra cũng bằng mũi, tưởng tượng ý đang dẫn câu 3 theo khí thở ra các đầu ngón tay. Trở lại câu 1,hít và thu năng lượng hào quang vào đan điền thần Câu 2 ngưng không thở để giữ tụ khí tại đan điền thần. Câu 3, ý nghĩ đến lòng bàn tay và 5 ngón tay, khi thở ra cũng bằng mũi, tưởng tượng ý đang dẫn câu 3 theo khí thở ra các đầu ngón tay. Tập thời gian lâu, nhiều ngày cho quen. Giai đoạn ngưng thở không được nén khí mà để tự nhiên sẽ không bị tức hơi, nghẹn ngực, và kết qủa, đo nhiệt kế và dùng bút thử điện đo điện từ trường ở lòng bàn tay và 5 đầu ngón tay để kiểm chứng kết qủa xem tập đúng hay sai, thấy nhiệt độ lòng bàn tay và 5 đầu ngón tay 36-37 độ C, điện từ trường 100-600 volt. Đo Thiên Môn, có điện từ trường, nhưng phải có nhiệt độ thấp hơn bàn tay là đúng, nghĩa là khí đi ra lòng bàn tay, ngược lại trên đỉnh đầu nóng hơn là khí đã đi ngược lên Thiên Môn làm tăng áp huyết, nóng nhức đầu là tập sai, thay vì ý nghĩ ở bàn tay cho khí đi xuống thoát ra, thì lại nghĩ ở đỉnh đầu. Theo lý thuyết đông y khí công, ý ở đâu khí đi đến đó, khí đến đâu dẫn máu theo đến đó, thì mục đích bài tập này cho ý dẫn khí xuống tay, chứ không phải cho lên đầu.

BÀI 11: NIỆM PHẬT THU-PHÓNG NĂNG LƯỢNG RA TAY

Nhắm mắt, ngửa hai lòng bàn tay đặt trên đùi, nghe tiếng niệm Nam Mô A Di Đà Phật, và niệm theo nhỏ tiếng tai vừa đủ nghe, niệm câu 1 thì dùng ý thu năng lượng hào quang của Phật từ điểm A trên đỉnh đầu vào điểm B nơi đan điền thần hơi phồng lên. Câu 2 vẫn niệm nhưng giữ khí tại đan điền thần vẫn trong tình trạng đan điền thần đang phồng. Câu 3 miệng vẫn niệm 6 chữ và cho đan điền thần xẹp xuống cùng lúc tưởng tượng nghĩ câu Nam Mô A Di Đà Phật đang tuôn chạy từ 2 cánh tay thoát ra khỏi 5 đầu ngón tay Như vậy câu 1 niệm 6 chữ từ ngoài Thiên Môn vào đan điền thần phồng lên từ từ Câu 2, miệng niệm 6 chữ tụ tại đan điền thần để giữ khí, tụ khí, đan điền thần vẫn trong tình trạng phồng. Câu 3, miệng niệm 6 chữ, tưởng tượng 6 chữ chạy ra 2 cánh tay thoát ra khỏi 5 đầu ngón tay cùng lúc đan điền thần xẹp xuống đưa khi thoát ra 5 đầu ngón tay. Trở lại câu 1, niệm 6 chữ thu năng lượng hào quang vào đan điền thần cho phồng lên từ từ Câu 2 niệm 6 chữ tại đan điền thần vẫn đang phồng. Câu 3, niệm 6 chữ tưởng tượng đan điền thần xẹp xuống từ từ cho 6 chữ theo ra 2 cánh tay chạy thoát ra 5 đầu ngón tay . Kiểm chứng : Đo Thiên Môn, có điện từ trường, nhưng phải có nhiệt độ thấp hơn bàn tay là đúng, nghĩa là khí đi ra lòng bàn tay, ngược lại trên đỉnh đầu nóng hơn là khí đã đi ngược lên Thiên Môn làm tăng áp huyết, nóng nhức đầu là tập sai, thay vì ý nghĩ ở bàn tay cho khí đi xuống thoát ra, thì lại nghĩ ở đỉnh đầu. Theo lý thuyết đông y khí công, ý ở đâu khí đi đến đó, khí đến đâu dẫn máu theo đến đó, thì mục đích bài tập này cho ý dẫn khí xuống tay, chứ không phải cho lên đầu. Bài 10 chỉ dùng Ý chứ không niệm, bài 11 phải niệm theo, tập thu và phóng năng lượng ra tay cho quen, và dùng năng lượng hào quang của Phật A Di Đà để thanh lọc khí trược trong cơ thể đã gây bệnh cho các tế bào cơ thể bị đẩy ra khỏi bàn tay khi cơ thể bị nhiễm bệnh do môi trường thời tiết hay do thức ăn nhiễm độc hại.

BÀI 12.NIỆM PHẬT DÙNG Ý THANH LỌC TÀ KHÍ THÔNG NGŨ TẠNG

Nhắm mắt, ngửa hai lòng bàn tay đặt trên đùi, miệng niệm Nam Mô A Di Đà Phật, nhỏ tiếng tai vừa đủ nghe theo máy niệm, niệm 3 câu thì dùng ý thu năng lượng hào quang của Phật từ điểm A trên đỉnh đầu vào điểm B nơi đan điền thần GỌI LÀ TÂM HỎA. Không cần chú ý đến hơi thở phồng-xẹp đan điền. Theo ngũ hành tạng phủ tương sinh của đông y, tâm hỏa sinh Tỳ Vị thổ, thổ sinh phế kim, kim sinh thận thủy, thủy sinh gan mộc, mộc sinh tâm hỏa, là xong một vòng ngũ hành trở về tâm hỏa. Miệng niệm 3 câu Nam Mô A Di Đà Phật, dùng ý dẫn năng lượng hào quang từ ngoài Thiên Môn vào đan điền thần, cảm nhận đan điền ấm nóng, niệm tiếp 3 câu ý lại dẫn năng lượng xuống bao tử, giữa bụng, huyệt Trung Quản, cảm nhận bao tử ấm nóng, niệm 3 câu khác ý lại nghĩ đến 2 hõm vai, 2 huyệt Trung Phủ hai bên phổi, cảm nhận ấm nóng, niệm 3 câu khác ý lại nghĩ đến 2 qủa thận sau lưng, cảm nhận 2 qủa thận vùng lưng dưới ấm nóng, niệm 3 câu khác, ý nghĩ đến vùng gan dưới bẹ sườn bên phải, cảm nhận gan ấm nóng, rồi niệm 3 câu khác, ý lại đưa năng lượng hào quang về đan điền thần, là thông ngũ tạng được 1 vòng. Niệm Phật thông 3 vòng ngũ tạng, rồi dùng niệm Nam Mô A Di Đà Phật nhiều lần tưởng tưởng đưa ra 2 cánh tay cho khí ra 2 bàn tay thoát khỏi 5 đầu ngón tay, cảm nhận khí đang thoát ra đầu ngón tay theo từng câu niệm Phật. Rồi ḷại tập lần 2 hay nhiều lần đi 3 vòng ngũ tạng rồi lại cho tà khí phóng ra 5 đầu ngón tay. Bài này cũng là bài thu-phóng năng lượng, nhưng trước khi phóng ra khỏi cơ thể thì dùng năng lượng hào quang để thông khí huyết ngũ tạng thanh lọc trước khi phóng ra khỏi 5 ngón tay

BÀI 13.NIỆM PHẬT DÙNG Ý BỔ-TẢ TẠNG BỆNH

Nhắm mắt, ngửa hai lòng bàn tay đặt trên đùi, miệng niệm Nam Mô A Di Đà Phật, nhỏ tiếng tai vừa đủ nghe theo máy niệm, niệm 3 câu thì dùng ý thu năng lượng hào quang của Phật từ điểm A trên đỉnh đầu vào điểm B nơi đan điền thần GỌI LÀ TÂM HỎA. Không cần chú ý đến hơi thở phồng-xẹp đan điền.
Theo ngũ hành tạng phủ tương sinh của đông y, tâm hỏa sinh Tỳ Vị thổ, thổ sinh phế kim, kim sinh thận thủy, thủy sinh gan mộc, mộc sinh tâm hỏa, là xong một vòng ngũ hành trở về tâm hỏa.
BỔ TẠNG HƯ :
Theo đông y hư thì bổ mẹ, thí dụ tỳ vị thuộc thổ hư yếu, ăn không tiêu, hư gọi là con hư, thì phài bổ mẹ của thổ là tâm hỏa, nơi đan điền thần.
Bổ bao tử, tỳ vị , đưa năng lượng hào quang vào đan điền thần liên tục.:
Khi chúng ta niệm Nam Mô A Di Đà Phật đưa năng lượng hào quang vào đan điền thần thuộc tâm hỏa là mẹ của tỳ vị thổ, nên tỳ vị thổ khỏe mạnh, sẽ hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành máu.
Bổ phế kim,

Miệng niệm 3 câu Nam Mô A Di Đà Phật, dùng ý dẫn năng lượng hào quang từ ngoài Thiên Môn vào đan điền thần, cảm nhận đan điền ấm nóng, niệm tiếp 3 câu ý lại dẫn năng lượng xuống bao tử, giữa bụng, huyệt Trung Quản, cảm nhận bao tử ấm nóng, niệm 3 câu khác ý lại nghĩ đến 2 hõm vai, 2 huyệt Trung Phủ hai bên phổi, cảm nhận ấm nóng, niệm 3 câu khác ý lại nghĩ đến 2 qủa thận sau lưng, cảm nhận 2 qủa thận vùng lưng dưới ấm nóng, niệm 3 câu khác, ý nghĩ đến vùng gan dưới bẹ sườn bên phải, cảm nhận gan ấm nóng, rồi niệm 3 câu khác, ý lại đưa năng lượng hào quang về đan điền thần, là thông ngũ tạng được 1 vòng.
Niệm Phật thông 3 vòng ngũ tạng, rồi dùng niệm Nam Mô A Di Đà Phật nhiều lần tưởng tưởng đưa ra 2 cánh tay cho khí ra 2 bàn tay thoát khỏi 5 đầu ngón tay, cảm nhận khí đang thoát ra đầu ngón tay theo từng câu niệm Phật.
Rồi ḷại tập lần 2 hay nhiều lần đi 3 vòng ngũ tạng rồi lại cho tà khí phóng ra 5 đầu ngón tay.
Bài này cũng là bài thu-phóng năng lượng, nhưng trước khi phóng ra khỏi cơ thể thì dùng năng lượng hào quang để thông khí huyết ngũ tạng thanh lọc trước khi phóng ra khỏi 5 ngón tay

Theo quy luật con hư bổ mẹ, hay bổ mẹ để chữa bệnh con hư, thì chức năng của bao tử là thổ luôn luôn suy yếu khi chúng ta ăn thức ăn sai, ăn nhiều không tiêu, không chuyển hóa thức ăn thành chất bổ máu thì sẽ chuyển hóa thành mỡ, khi khám tây y sẽ có kết qủa cao cholesterol, khi thứ ăn hàn lạnh luôn làm cho nhịp tim thấp dưới 70 thì bao tử bị hàn lạnh, sẽ bị máu đông, mỡ đặc làm nghẽn mạch tim, tắc động mạch vành gây ra nhiều dấu hiệu của bệnh suy tim mạch, hay ngược lại ăn nhiều thức ăn cay nóng, làm nhịp tim tăng cao trên 80, gây ra cao áp huyết làm đứt mạch máu não, hay nhồi máu cơ tim…
Do đó cần phải tập niệm Nam Mô A Di Đà Phật thanh lọc thông ngũ tạng nhiều vòng, khi vòng cuối muốn dừng nghỉ thì ngưng tại đan điền thần, thì năng lượng hào quang của Phật giúp chức năng hoạt động của tim mạnh là bổ tâm hỏa, tâm hỏa sẽ nuôi con là tỳ vị thổ mạnh để chuyển hóa thức ăn thành chất bổ máu nuôi các tế bào cơ thể khỏe mạnh
Cách tập :
Niệm câu 1 thu năng lượng hào quang vào đan điền phồng lên, câu 2, niệm câu 2 xẹp đan điền, ý đươa xuống giữa bụng là bao tử, niệm câu
Câu 2 vẫn niệm nhưng giữ khí tại đan điền thần vẫn trong tình trạng đan điền thần đang phồng.
Câu 3 miệng vẫn niệm 6 chữ và cho đan điền thần xẹp xuống cùng lúc tưởng tượng nghĩ câu Nam Mô A Di Đà Phật đang tuôn chạy từ 2 cánh tay thoát ra khỏi 5 đầu ngón tay
Như vậy câu 1 niệm 6 chữ từ ngoài Thiên Môn vào đan điền thần phồng lên từ từ
Câu 2, miệng niệm 6 chữ tụ tại đan điền thần để giữ khí, tụ khí, đan điền thần vẫn trong tình trạng phồng.
Câu 3, miệng niệm 6 chữ, tưởng tượng 6 chữ chạy ra 2 cánh tay thoát ra khỏi 5 đầu ngón tay cùng lúc đan điền thần xẹp xuống đưa khi thoát ra 5 đầu ngón tay.
Trở lại câu 1, niệm 6 chữ thu năng lượng hào quang vào đan điền thần cho phồng lên từ từ
Câu 2 niệm 6 chữ tại đan điền thần vẫn đang phồng.
Câu 3, niệm 6 chữ tưởng tượng đan điền thần xẹp xuống từ từ cho 6 chữ theo ra 2 cánh tay chạy thoát ra 5 đầu ngón tay .
Kiểm chứng :
Đo Thiên Môn, có điện từ trường, nhưng phải có nhiệt độ thấp hơn bàn tay là đúng, nghĩa là khí đi ra lòng bàn tay, ngược lại trên đỉnh đầu nóng hơn là khí đã đi ngược lên Thiên Môn làm tăng áp huyết, nóng nhức đầu là tập sai, thay vì ý nghĩ ở bàn tay cho khí đi xuống thoát ra, thì lại nghĩ ở đỉnh đầu.
Theo lý thuyết đông y khí công, ý ở đâu khí đi đến đó, khí đến đâu dẫn máu theo đến đó, thì mục đích bài tập này cho ý dẫn khí xuống tay, chứ không phải cho lên đầu.
Bài 10 chỉ dùng Ý chứ không niệm, bài 11 phải niệm theo, tập thu và phóng năng lượng ra tay cho quen, và dùng năng lượng hào quang của Phật A Di Đà để thanh lọc khí trược trong cơ thể đã gây bệnh cho các tế bào cơ thể bị đẩy ra khỏi bàn tay khi cơ thể bị nhiễm bệnh do môi trường thời tiết hay do thức ăn nhiễm độc hại.

Nguồn: Thầy ĐỖ ĐỨC NGỌC