227 – So sánh hai cách chữa đông-tây y trong bệnh : Máu tụ thành cục trong tim, hở van tim 2 lá, ho khan và mất tiếng, thoái hóa cột sống lưng, nhiều lúc phải đi còng, chuột rút chân, cơ thể gầy, sắc mặt xanh xao

Thầy kính quí!

Con vui mừng và cám ơn Thầy đã giành thời gian quí báu dạy bảo con!

Con thành thật nhận lỗi trước Thầy và các anh chị vì lý do cung cấp thiếu thông tin của bệnh nhân thứ hai.

Bệnh nhân nữ 53 tuổi (Đã bị chết đi sống lại 3 lần.) bị các chứng bệnh :

Máu tụ thành cục trong tim, hở van tim 2 lá, ho khan và mất tiếng, thoái hóa cột sống lưng, nhiều lúc phải đi còng, chuột rút chân, cơ thể gầy, sắc mặt xanh xao

Huyết áp tay trái: 126/92mmHg mạch112

Huyết áp tay phải: 112/78mmHg mạch 95

Hiện nay bệnh nhân đang dùng thuốc kháng sinh sau:

Spiromid 1v/ ngày, Nitromint 2,6mg: (1v sáng; 1v tối), Digoxin 1/4 mg ( cách ngày 1 viên), Aprovel 150 (ngày uống 1/2 viên chiều), Sintrom 4mg (Thứ.2,4,6, CN =1/4 viên; Thứ 3,5,7 = 1/2 viên).

A-Nguyên nhân :

a-Theo kết qủa của số đo áp huyết, số tâm trương tay trái 92, tay phải 78, chưa hẳn là bệnh hở van tim nặng, thật ra không cần phải chữa bằng thuốc. Điều đáng chú ý ở đây là mạch nhịp tim đập nhanh, theo lý thuyết của đông y thuộc mạch sác (nhiệt), bên bao tử nhiệt hơn bên gan, nếu áp huyết đúng phải ở khoảng 129 và mạch dưới 80 là người có khí huyết tốt, không bệnh tật, theo như tiêu chuẩn dưới đây :

120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)

Vì nếu đưa mạch tay trái xuống 95 bằng tay phải, thì áp huyết thật của tay trái là 126-(112 95)= 109/92 mmHg mạch 95, điều đó chứng tỏ thức ăn đã có nhiều chất chua, hàn lạnh, nên làm mất máu, tụt áp huyết, hậu qủa là tim bị mệt.

Thay vì chữa gốc bệnh là thiếu máu, phải thêm máu cho tim tuần hoàn, thì tây y chữa ngọn vào triệu chứng bệnh bằng các thuốc gây nhiều biến chứng làm cơ thể thêm nhiều bệnh do phản ứng phụ của thuốc .

b-Phân tích sự lợi hại của những thuốc đang dùng :

Spiromid 1v/ ngày :

Chữa Phù nề kết hợp với suy tim sung huyết, hội chứng thận hư, xơ gan cổ trướng gan với, phù vô căn, tăng huyết áp cần thiết.

Phản ứng phụ :

Rối loạn điện giải, buồn nôn, nôn mửa, đau bụng bụng, ù tai, nhức đầu, chóng mặt và mờ mắt, thiếu máu, giảm bạch cầu, phản ứng dị ứng…

Nitromint 2,6mg: (1v sáng; 1v tối) :

Phòng và điều trị đau thắt ngực, bổ sung điều trị cho suy tim và digitalic lợi tiểu, làm giảm áp lực nhồi máu cơ tim

Phản ứng phụ:

Làm chậm phát triển trí, các triệu chứng nhẹ đường tiêu hóa, cảm giác nhẹ cháy trong miệng, nhức đầu, đỏ bừng, chóng mặt, hồi hộp, cảm giác nóng, buồn nôn, ra mồ hôi. Thỉnh thoảng có chứng xanh da, trong trường hợp quá liều.

Digoxin 1/4 mg ( các ngày 1 viên) :

Digoxin làm tăng sức mạnh và sức sống của các cơn co thắt tim, và rất hữu ích trong điều trị suy tim, làm tăng lực co thắt của cơ bắp của tim bằng cách hoạt động của một loại enzyme (ATPase) điều khiển chuyển động của canxi, natri và kali vào ức chế cơ tim. Canxi kiểm soát lực lượng của contraction. Ức chế ATPase làm tăng canxi trong cơ tim và do đó làm tăng lực co bóp tim. Digoxin cũng làm chậm dẫn điện giữa atria và tâm thất của tim và có ích trong điều trị các bất thường nhịp tâm nhĩ nhanh chóng như rung tâm nhĩ, rung nhĩ, và nhịp tim nhanh tâm nhĩ.

Phản ứng phụ :

Tác dụng phụ thường gặp là buồn nôn, nôn mửa, nhức đầu, chóng mặt, phát ban da, và những thay đổi tinh thần, tác dụng phụ nghiêm trọng liên kết với digoxin bao gồm khối tim, nhịp tim nhanh, và nhịp tim chậm. Digoxin cũng đã được liên kết với rối loạn thị giác (nhìn mờ hoặc màu vàng), đau bụng, và mở rộng vú. Bệnh nhân có nồng độ kali trong máu thấp có thể phát triển độc tính của digoxin, ngay cả khi nồng độ digoxin không được coi là cao. Tương tự, cao cấp canxi và magie trong máu thấp có thể làm tăng độc tính của digoxin và sản xuất rối loạn nghiêm trọng trong nhịp tim.

Aprovel 150 (ngày uống 1/2 viên chiều) :

Aprovel viên nén có chứa các thành phần hoạt chất Irbesartan, mà là một loại thuốc gọi là chất đối kháng thụ thể angiotensin II. Nó hoạt động bằng cách ngăn ngừa các hành động của một hormone trong cơ thể gọi là angiotensin II II. Angiotensin hành vi bình thường về thụ đặc biệt trong cơ thể, với hai kết quả chính. Thứ nhất, nó gây ra các mạch máu ngoại vi để thu hẹp, và thứ hai, nó kích thích sản xuất hormone khác được gọi là Aldosterone. Aldosterone làm muối và nước để được giữ lại của thận, làm tăng khối lượng chất lỏng trong các mạch máu, làm giảm áp lực bên trong các mạch máu. Chặn các hành động của angiotensin II cũng làm giảm tác động của Aldosterone trên thận. Kết quả của điều này là sự gia tăng lượng nước ra khỏi máu của thận. Điều này làm giảm lượng chất lỏng trong các mạch máu, mà còn làm giảm sức đề kháng và áp suất trong mạch máu. Các hiệu ứng tổng thể kết hợp của những thay đổi này là để hạ thấp huyết áp.

Phản ứng phụ :

Chóng mặt, buồn nôn và nôn, mệt mỏi, giảm huyết áp xảy ra khi đi từ nằm xuống để ngồi hoặc đứng, kết quả là chóng mặt và mất minh mẫn, đau ở cơ bắp hoặc cơ xương, tiêu chảy, tiêu khó, Tăng nhịp tim nhanh, ho, kali trong máu cao, đau ngực, yếu tình dục, ngứa, phát ban da phồng giộp, nổi mề đay hoặc sưng môi, lưỡi và họng, phù mạch, giảm chức năng thận, nhức đầu, ù tai, chuột rút cơ bắp, chức năng gan bất thường….

Sintrom 4mg (Thứ.2,4,6, CN =1/4 viên; Thứ 3,5,7 = 1/2 viên) :

Là thuốc chống đông máu được sử dụng để điều trị và ngăn ngừa cục máu đông trong các tĩnh mạch bằng cách ngăn ngừa cục máu đông hình thành, nhưng nó không hòa tan cục máu đông. Nó cũng được dùng để điều trị rung tâm nhĩ (một nhịp tim bất thường) có liên quan đến máu cục máu đông, và để điều trị và ngăn ngừa máu đông trong phổi. Nó được sử dụng cùng với các thuốc khác để điều trị cục máu đông ở trung tâm và các cuộc tấn công thiếu máu cục bộ thoáng qua (mini-stroke).

Sintrom hay Acenocoumarol hoạt động bằng cách ngăn chặn một phần tái sử dụng vitamin K trong gan. Vitamin K là cần thiết để làm cho yếu tố đông máu giúp máu đến cục máu đông và ngăn ngừa chảy máu. Vitamin K được tìm thấy tự nhiên trong thức ăn như lá, rau xanh và dầu thực vật nhất định.

Phản ứng phụ :

Chảy máu từ vết cắt như chảy máu nướu răng, nhức đầu, chóng mặt, hoặc chảy máu cam chảy máu kinh nguyệt bình thường hoặc ngứa ran của khuôn mặt, bàn tay, hoặc bàn chân đau, sưng, hoặc tê liệt khó chịu hoặc nước tiểu màu hồng nâu, hụt bất ngờ của hơi thở bất thường không giải thích được thâm tím hoặc sưng đau

Dừng uống thuốc và tìm kiếm chăm sóc y tế ngay lập tức nếu xảy ra bất cứ sau đây: dấu hiệu ngất xỉu của một phản ứng dị ứng nghiêm trọng (sưng mặt hoặc sưng cổ họng, phát ban, hoặc khó thở) có dấu hiệu chảy máu (phân đen như hắc ín, chảy máu trong mắt, máu trong phân, máu trong chất nôn hoặc nôn mửa giống như bã cà phê, máu trong nước tiểu, ho ra máu)

c-Van tim :

Trước khi có bệnh hở hay hẹp van tim đều có dấu hiệu báo trước, bằng máy đo áp huyết, số thứ hai chỉ tâm trương, theo khí công là chỉ chức năng đàn hồi của van tim trong giới hạn 70-90 là tốt. Thí dụ kết qủa đo áp huyết số thứ hai dưới 70 như sau là van tim bị hẹp :140/66mmHg, số thứ hai trên 90 là bị hở van : 140/100mmHg, do uống thuốc giãn mạch lâu dài để làm hạ áp huyết. Còn van tim bị nghẹt do ống động mạch tắc nghẽn vì cholesterol kết tủa, máy đo áp huyết sẽ bơm nhồi 2-3 lần mới cho ra kết qủa lúc cao lúc thấp. Vì thế bị hở van hai lá là do những dấu hiệu báo trước kể trên, cho nên nếu biết chẩn đoán bệnh bằng máy đo áp huyết, sẽ biết ngay nguyên nhân gây bệnh, để phòng ngừa.

B-Cách điều chỉnh Tinh-Khí-Thần :

Tinh :

Là điều chỉnh bằng ăn uống thuốc men theo đông y hay tây y, chỉ cần ưu tiên chọn một loại thuốc nào trị đúng gốc bệnh mà không cần trị bao vây đủ loại thuốc làm rối loạn thần kinh chức năng của tạng phủ.

Đã có nhiều bác sĩ tây y học môn đông y khí công, biết tìm nguyên nhân gốc bệnh theo lý thuyết đông y, khi hành nghề đã biết kết hợp với kết qủa thử nghiệm của tây y, nên chọn rất ít thuốc trong điều trị, không mâu thuẫn phạm ngũ hành, rất có kết qủa. Bên nước Pháp, muốn học đông y, phải là các bác sĩ mới được theo học, nên cách chữa của những vị này rất có hiệu qủa và an toàn.

a-Cần uống thuốc bổ máu để chữa vào gốc bệnh, làm tăng áp huyết bằng sirop bổ máu Đương Quy Tửu, kích thích thèm ăn, giúp cơ thể tăng tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành máu, nên cũng cần phải ăn những thức ăn có chất tạo máu như củ dền đỏ, rau dền, hải sâm, lẩu đồ biển, thịt bò…Pha 2 muỗng canh lớn sirop với 1 ly nước nóng, uống trước mỗi bữa ăn 5 phút.

b-Cần dùng sâm của người nghèo là Bột Điền Thất sống, vừa bổ khí, vừa làm tan máu ứ bầm, vừa thông máu bị tắc nghẽn, mỗi ngày uống 3 lần sau mỗi bữa ăn thay trà, dùng 1 muỗng cà phê bột pha với 1 ly nước nóng.

Cả hai loại thuốc dùng cho đến khi mạch tim đập bình thường, Khi khí huyết đầy đủ thì những biến chứng như ho, thoái hóa xương khớp, chuột rút, đi còng… đều biến mất nếu áp huyết đo ở hai tay lọt vào theo tiêu chuẩn của khí công :

95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.(6 tuổi-12 tuổi)

100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 65 là áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi-17 tuổi)

110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi)

120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)

130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)

Khí :

a-Tập bài Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực 200 lần làm tăng khí huyết, tăng áp huyết, tăng hồng cầu, mạnh lưng thận.

b-Tập bài Cúi Ngửa 4 Nhịp 20 lần, giúp máu lên nuôi não, làm da mặt đỏ hồng, thông khí huyết ở lưng để chữa đau lưng.

c-Tập bài Vỗ Tay 4 Nhịp 200 lần thông tim mạch, chữa lưng còng, mạnh tim phổi để chữa ho suyễn thiếu khí, giúp cơ thể tăng thêm oxy để duy trì lượng máu và hồng cầu.

d-Tập bài Dậm Chân Phía Trước Phía Sau / Chachacha 5 phút, để thông khí huyết xuống, chữa bệnh chuột rút, chân yếu đi không vững.

e-Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần sau mỗi bữa ăn 30 phút, thông khí huyết toàn thân, kích thích hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành chất bổ máu, và loại bỏ cặn bã nhanh.

Thần :

Tập thở thiền ở Mệnh Môn cho khí huyết thông lên cột sống, chuyển âm ra dương, điều chỉnh áp huyết, tăng thận dương.

Thân

doducngoc

Phản hồi

Thầy kính quí!

Con xin phép được báo cáo tin mừng này tới Thầy:
Bệnh nhân nữ 53 tuổi (Đã bị chết đi sống lại 3 lần.) bị các chứng bệnh:
Máu tụ thành cục trong tim
Hở van tim 2 lá
Ho khan và mất tiếng
Thoái hóa cột sống lưng, nhiều lúc phải đi còng
Chuột rút chân
Cơ thể gầy; sắc mặt xanh xao
Huyết áp tay trái: 126/92mmHg/112
Huyết áp tay phải: 112/78mmHg/95

Kể từ 05/05/2010 điều trị theo phương pháp tổng hợp của “KHÍ CÔNG Y ĐẠO” mà Thầy chỉ dạy Đến ngày hôm nay 16/08/2010 bệnh nhân trên đã khỏe mạnh và và sk cơ bản bình phục; đã hết các chứng bệnh kể trên.

Trước đây bệnh nhân này phải dùng các loại thuốc kháng sinh do Bác Sỹ bệnh viện Bạch Mai chỉ định; Hiện nay không phải dùng một loại kháng sinh nào.
Spiromid 1v/ ngày
Nitromint 2,6mg: (1v sáng; 1v tối)
Digoxin 1/4 mg ( các ngày 1 viên)
Aprovel 150 (ngày uống 1/2 viên chiều)
Sintrom 4mg (Thứ.2,4,6, CN =1/4 viên; Thứ 3,5,7 = 1/2 viên)

Bệnh nhân này là một người nông dân tốt, hiền lành, chất phác nhưng ốm yếu, nghèo khó , không nơi nương tựa. Trong lúc Chị ấy không biết dựa vào ai để xoay sở ra được 60 triệu để nhập viện để các Bác Sỹ Tây Y nong tim. Bản thân chị càng ngày càng thấy hoang mang, lo lắng thậm chí đã có lúc tuyệt vọng đành phó thác thân phận cho sự may rủi… Nhưng Ông trời cũng thấu hiểu được hoàn cảnh của chị nên đã cho chị cơ hội được tiếp cận với Phương pháp chữa bệnh bằng “Khí công y đạo Việt Nam”; Chính Thầy là người đã trực tiếp lên phác đồ chữa trị cho chị ấy và chỉ dạy cho con thấu đáo về kiến thức, tư duy, lý luận y lý đối với căn bệnh hiểm nghèo này.
Chí ấy nhờ con chuyển lời biết ơn tới Thầy đã nhiệt tâm chữa trị khỏi bệnh cho chị.

Kính mong Thầy luôn khỏe!

Con
Bùi Thăng Long
Nhà thuốc ” KIM – THỦY ĐƯỜNG”