I-CÁCH KHÁM TÌM BỆNH THEO CHỨNG HƯ HAY THỰC.
Xét 3 thị́ dụ đê hiểu rõ thế nào là thực hay hư :
1-Bệnh tiểu đường, đông y gọi là đái tháo đường có dấu hiệu 3 nhiều là thực hay hư ?
2-Có người khai bệnh: Tôi có bệnh 3 hư, chữa làm sao ?
3-Có người nói: Tôi có 3 thực chữa làm sao?
1-Về câu hỏi 1: Bệnh đái tháo đường có 3 nhiều là :
a-Khát nhiều phải uống nước nhiều, nên đông y gọi là bệnh tiêu khát
b-Ăn nhiều mà vẫn bị gầy sụt cân.
c-Tiểu nhiều lần trong ngày và nước tiểu nổi bọt lâu tan là trong nước tiểu có đường.
Lý luận bệnh về chứng hư-thực theo ngũ hành :
a-Khát nhiều do phổi và cổ họng nóng khô khát là chứng thực nhiệt phải uống nước, tại sao phổi nóng, thì ngũ hành của phổi là kim, kim nóng do tim nóng là hỏa khắc kim làm phổi khô khát cần phải uống nước cho hết khát là giải nhiệt. Như vậy tim và phổi là bệnh ở thượng tiêu thực.
b-Ăn nhiều mà vẫn gầy do bao tử nhiệt đốt cháy thức ăn không thành chất bổ nuôi tế bào nên tế bào vẫn đói, là trung tiêu thực.
c-Tiểu nhiều là do thận phải lọc nước nhiều là hạ tiêu bị thực.
Như vậy bệnh đái tháo đường của đông y, 3 nhiều là 3 thực, có thể biết trước dấu hiệu 3 thực này từ 6 tháng trước bằng máy đo áp huyết, khí thực khi tâm thu cao là thực, huyết thực khi tâm trương cao là thực, nhịp tim cao là thực.
Theo tây y bệnh đái tháo đường làm tăng cao áp huyết vượt hơn tiêu chuẩn trên 150mmHg, tâm thu tăng cao dễ bị tai biến mạch máu não, tâm trương tăng cao trên 100mmHg dễ bí đột qụy do mỡ làm xơ vữa động mạch vành làm nghẹt tim, do đường nhiều làm nóng người, nhịp tim tăng cao hơn tiêu chuẩn như 90-100 nhịp trong 1 phút. Trong khi tiêu chuẩn áp huyết của tuổi trung niên là : 120-130/70-80mmHg nhịp 70-75.
Nếu thử đường huyết, thì cao vượt tiêu chuẩn đói, và no theo tiêu chuẩn W.H.O. 1979, khi đói đường huyết cho phép 100-140mg/dL, khi no từ 140-200mg/dL.
Nếu dùng giấy qùy thử nước bọt thì pH cao 8-9, nếu thử nhiệt độ đầu ngón tay út cao hơn 37,5 độ C.
2-Đối với tế bào, thế nào là thực chứng:
4 chất cần thiết nuôi tế bào hàng ngày là Glucose, protein, lipid, oxy. Thực chứng là trong tế bào dư thừa đường và protein thì sản xuắt ra lượng máu dư thừa, dư thừa đường và lipid thì sản xuất ra mỡ nhiều, chúng ta biết được điều này do tổng hợp hơn 2 ngàn tỷ tế bào trong cơ thể hợp thành thực chứng qua máy đo áp huyết 2 tay có tổng số khí lực tâm thu trở thành thực khi đo có số cao hơn 140 đến 200mmHg, tổng số lượng máu mỡ dư thừa có số tâm trương cao hơn, 90-120mmHg, và lượng đường trong tế bào dư thừa làm các tết bào tăng nhiệt khi máy đo áp huyết chỉ nhịp tim cao trên 80-95, đo nhiệt kế bàn tay ngón tay có nhiệt độ trên 37.5 độ C, có pH thử nước bọt cao trên 8.
II-CÁCH CHỮA THEO NGŨ HÀNH MẸ-CON CỦA ĐÔNG Y:
Năm biểu tượng ngũ hành tạng phủ là :
Hỏa sinh thổ
Thổ sinh kim
Kim sinh thủy
Thủy sinh mộc
Mộc lại sinh hỏa là 1 vòng khí hóa ngũ hành.
1-Mẹ thực tả con :
A-Cách chữa bệnh đái tháo đường thực chứng :
Khi ăn nhiều đường, nhiều mỡ, bao tử thực, tỳ thực, thay vì hỏa thực mới sinh thổ thực, nhưng ngược lại do ăn nhiều thổ bị thực không nhận thêm hỏa từ tim, do đó tim bị ứ hỏa trở thành thực, tim thay vì nhận máu do gan cung cấp nhưng tim bị thực không nhận từ gan, nên gan tự nhiên bị thực, gan thay vì nhận máu đã lọc từ thận, thì gan đang ứ đọng máu không phân phối cho tim nên từ chối không nhận từ thận chuyển đến, nên thận phóng thích chất dư thừa theo nước tiểu, thành đi tiểu nhiều.
Như vậy bệnh thực làm rối loạn trật tự ngũ hành do thổ thực,
Do đó cách chữa theo đông y là lập lại trật tự quân bình ngũ hành chứ không chữa vào ngọn bệnh của từng hành, phải tả con của thổ là kim, cho xổ ruột cho áp huyết xuống tâm thu, tâm trương, tập khí công bài làm hạ áp huyết hạ đường cho áp huyết 2 tay và đường huyết trử lại bình thường thì ngưng.
B-Cách chữa bệnh tiểu đường vừa thực chứng vừa hư chứng do cách chữa sai lầm của tây y gây ra.
Vì tây y cho dùng thuốc hạ áp huyết cao và hạ đường huyết cao, ban đều áp huyết và đường từ thực chứng dư thừa đã hạ xuống bình thường, thay vì vẫn ăn uống bình thường, gảm bớt đường và mỡ song song với dùng thuốc khi áp huyết tăng cao và đường tăng cao, còn áp huyết và đường-huyết trở lại bình thường trong tiêu chuẩn thì ngưng không dùng thuốc.
Tôi thường dặn bệnh nhân của tôi áp dụng như vậy, khi cao thì uống khi thấp thì không uống, mấy chục năm họ vẫn khỏe, dư thừa thuốc thì vất bỏ.
Ngược lại mọi người cứ nghe theo lối lý luận theo sách vở của bác sĩ phải uống thuốc suốt đời không được bỏ, nếu bỏ áp huyết và đường huyết sẽ tăng vọt, ai cũng vô minh sợ như vậy, cuối cùng lại trở thành bệnh hư chứng, áp huyết thấp, đường huyết thấp.
Các bác sĩ tây y bên các nước Châu Âu chữa bệnh áp huyết có hai loại bệnh là bệnh hypertension áp huyết cao hay hypotension áp huyết thấp và bệnh hyperdiabete đường-huyết cao hay bệnh hypodiabete đường huyết thấp, có hai cách chữa cao thấp khác nhau rõ ràng.
Các bác sĩ bên Âu châu chữa loại bệnh hư chứng hypo là phải bổ cho áp huyết tăng và đường huyết tăng để quân bình trở lại thành bình thường không còn bệnh hư. Còn các bác sĩ theo phương pháp của Mỹ không nói đến bệnh hư chứng, áp huyết thấp và đường thấp, vẫn bắt bệnh nhân không được bỏ thuốc mà phải uống thuốc hạ áp huyết và hạ đường suốt đời càng xuống thấp càng tốt trở thành bệnh 3 hư, thì không thấy logic chút nào, hình như có cái móc cái ngoặc nào đó kỳ kỳ không gỡ ra được, thì tự mình là bệnh nhân phải tự biết cách gỡ ra cho khỏi vướng vào lưới bệnh.
1-Thuốc chữa tiểu đường gây ra rối loạn tiêu hóa, áp huyết và đường huyết.
Trước khi chưa bị tây y cho uống thuốc ha đường thì chúng ta chưa bị bệnh cao áp huyết, nhưng từ khi dùng thuốc hạ đường thì nhịp tim đang từ 70-80 bị hạ thấp còn 60, thế là chân tay lạnh, cơ thể đau nhức, chóng mặt, thì đường huyết và nhịp tim thấp dưới tiêu chuẩn là hư chứng, biến chứng gây ra ăn không tiêu, đầy hơi, rối loạn tiêu hóa, là bao tử thực chứng làm áp huyết tâm thu tăng hơn tiêu chuẩn là khí lực thực chứng, tâm trương cũng cao là thực, đông y vẫn có tên gọi hai bệnh này là : Khí thực hàn, huyết thực hàn. Thi dụ áp huyết 160/95mmHg nhịp mạch 60.
Vì thế, tây y chữa bệnh tiểu đường lại phải kèm theo thuốc chữa cao áp huyết, một thời gian sau sang giai đoạn hai là khí thực hàn là tâm thu 150, mạch 60, huyết hư hàn như tâm trương 60, mạch 60.
Trở lại lý luận áp huyết theo căn bản Tinh-Khí-Thần hay Khí-Máu-Đường thì khí thực hàn là khí không thông, sưng phù đau nhức, tê lạnh. Huyết hư hàn là thiếu máu mà máu lạnh đóng cục kh̀ông lưu thông nhanh làm tắc máu lên não gây tai biến liệt xuội chân tay vô lực, làm thiếu máu cho tim co bóp, máu đóng cục làm nghẹt tim, phải nong mạch vành hay mổ tim, nếu không thì dễ bị đột qụy, còn thiếu đường tụt thấp dưới 75mg/dL gây hôn mê bất tỉnh tim ngưng đập khi làm việc nặng nhọc như xúc tuyết, lên xuống cầu thang.
Cạch chữa biến chứng của tiểu thì nhịp tim thấp hàn là do thiếu đường phải uống đường cho đường-huyết tăng lên khoảng 140-180mg/dL thì tự nhiên người ắm và lại ăn ngon tiêu hóa tốt, áp huyết tâm thu xuống bìng thường 130-140, còn tâm trương thấp là thức ăn không có chất bổ máu thì tâm trương 65-70, nếu ăn thức ăn bổ máu, người hồng hào tăng cân thì tâm trương trở lại bình thường 70-80, lúc đó không dùng thuốc hạ áp huyết thì người khỏe. Ngược lại dùng thuốc áp huyết xuống thấp mà kiêng đường lại dùng thuốc hạ đường, làm rối loạn chuyển hóa đường thì nhịp tim thấp hàn mà đường-huyết lại tăng cao 200-300 tây y bắt tiêm insulin ngày 2 lần, nhịp tim thấp là hàn, nhiệt kế đo chỉ thấp low nơi đầu các ngón tay, càng lạ lùng hơn càng tiêm insulin thì đường huyết càng tăn cao đến 500mg/dl, phải tăng liều tiêm ngày 4 lần, rồi đường huyết tăng cao thêm, thì liều tiêm insulin tăng đơn vị insulin… hậu qủa cuối cùng lọc thận, cuối cùng tử vong. Nguyên nhân khoông biết theo dõi áp huyết, đường huyết, nhiệt kế, pH, chỉ nhắm mắt theo tây y mù quáng tự mình hại mình chết, mài lại còn cảm ơn nhờ tây y mà tôi mới sống được đến ngày nay.
2-Về câu hỏi 2 : Tôi có bệnh 3 hư chữa làm sao ?
Có thầy thuốc hỏi lại, 3 hư là 3 cái gì hư ?
Bệnh nhân trả lời là : Thiếu khí, thiếu đường, thiếu máu.
Thầy hỏi : Làm sao mà biết.
Bệnh nhân trả lời : Đo áp huyết 2 tay đều có số thứ nhất thấp, số thứ hai thấp, số thứ ba nhịp tim thấp.
Có 2 loại thầy trả lời :
a-Bác sĩ trả lời, áp huyết thấp là tốt không phải bị uống thuốc cao áp huyết.
b-Thầy thứ hai trả lời : áp huyết thấp thì đi hỏi bác sĩ, chứ có liên quan gì đến thiếu khí, thiếu máu, thiếu đường.
Bệnh nhân, nghe thầy thứ hai nói phải hỏi bác sĩ, thì bác sĩ đã nói là tốt không phải uống thuốc áp huyết, nên bệnh nhân tin lời 2 loại thầy thuốc kể trên nên không cần chữa. Cuối cùng bệnh hư càng thêm hư, áp huyết càng thấp, càng thiếu máu nhiều, càng thiếu đường nhiều, lại còn hãnh diện là vẫn sống khỏe, bỗng nhiên khi ngã bệnh, bác sĩ đọc bản án tử hình một cách nhẹ nhàng : Xin lỗi ông bà đã bị ung thư thời kỳ chót. Tại sao vậy ?
Chúng ta đang sống khỏe, vẫn sống khỏe, chỉ là sự sống hiện tại mọi người thấy được, còn sức sống mới quan trọng, là có sống được dài lêu không, ví như 2 ngọn đèn đầu đều cháy ngọn lửa to sáng như nhau, là sự sống, còn sức sống của ngọn đèn tùy thuộc vào bình chứa dầu còn nhiều hay ít, đèn nào ít dầu bỗng nhiên tất ngủm, thì tìm dâu hiệu ung thư là tìm sức sống của tế bào còn nhiều khí, nhiều máu, nhiều đường không, vì có người không hiểu vẫn cố chấp nói tôi có ăn đường đâu mà tôi vẫn sống khỏe phây phây đây này, rồi bỗng nhiên thấy họ vắng mặt trên thế gian này vì sức sống đã hết. Do đo đông y cần phải biết bắt mạch tìm sức sống thì tây y cũng phải biết máy đo áp huyết là máy đo sự sống và sức sống của con người.
Như vậy không phải bác sĩ nào cũng biết bắt mạch theo đông y, và bác sĩ cũng chỉ biết máy đo áp huyết để tìm xem ai có bệnh cao áp huyết thì phải uếng thuốc, còn áp huyết thấp thì không phải là bệnh cao áp huyết thì tốt, chứ không hiểu ý nghĩa 3 con số của máy đo áp huyết.
Thầy đông y thì nghe nói đến máy đo áp huyết cho biết là thấp, thì cũng hoảng vì mình không biết máy đo áp huyết chính là máy đo bắt mạch dùng trong đông khi, vì nó cũng bắt được khí hư hay thực, bắt được huyết hư hay thực, bắt được mạch nhiệt hay hàn.
Nếu dùng máy đo áp huyết bắt mạch, thì chúng ta cũng phân ra được 6 giai đoạn của hư chứng, tính theo căn bản gốc của bệnh tế tế bào.
Tế bào phải đủ 4 chất glucose, protein, lipid, oxy, trong mỗi đơn vị tế bào có oxy là khí lực hoạt động của tế bào, glucose và protein trong tế bào tạo ra lượng máu để sinh ra thịt bổ sung cho các bắp thịt, glucose với lipid tạo ra mỡ, ra da, gân, sụn, xương…đủ lượng đường tạo ra năng lượng hoạt động của tế bào. Tổng số hơn 2 ngàn tỷ tế bào tạo ra áp lục khí tuần hoàn huyết trong cơ thể mà thầy thuốc đông y bắt mạch biết được, nhưng theo chủ quan bị lệ thuộc vào sức khỏe và cảm nhận của các thầy thuốc đông y khác nhau, nên cũng gặp cảnh trứ trêu, đi thầy này thì bảo mạch hàn thầy khác bảo mạch nhiệt, cuối cùng 2 cách chữa hàn nhiệt khác nhau, làn bệnh nhân tiền mất tật mang mà không khỏi bệnh. Nhưng khách quan khi các thầy thuốc đông y biết dùng máy đo áp huyết để bắt mạch cho ra con số chính xác, và có hai laọi áp huyết khác nhau khi đói, khác với khi no, kể cả áp huyết và đường.
Do đó khi máy đo áp huyết báo cho biết thấp hơn tiêu chuẩn là bệnh hư chứng, thì khi chữa bắt buộc phải dùng phương pháp bổ để cho áp huyết trở lại quân bình trong tiêu chuẩn, thiô tùy theo mức độ hư thiếu ở giai đoạn nào trong 6 giai đoạn khi thực hiện phương phap con hư bổ mẹ.
Con hư Bổ mẹ :
Bổ mẹ là bổ sung thêm vào những cái gì hư, như khí lực hư thiếu, máu hư thiếu, đường hư thiếu, thì phải bổ thêm máu là glucose và protein, bổ thêm chất béo là glucose và lipid, bổ thêm khí lực là tập các bài khí công giúp chuyển hóa thức ăn thành khí lực, tùy theo hư nhiều hay ít dựa theo kết quả áp huyết chỉ tổng số lượng của hơn 2 ngàn tỷ tế bào trong cơ thể.
Nguyên tắc quân bình âm-dương là quên bình khí lực, máu, nhiệt độ, tùy theo áp huyết, thiếu và thấp bao nhiêu, cho đến khi áp huyết trở lại bình thường theo tiêu chuẩn tuổi thì ngưng.
Thí dụ áp huyết tốt theo tiêu chuẩn tuổi của người trung niên :
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41-59 tuổi)
Hư chứng giai đoạn 1 là AH thấp dần, cơ thể vẫn khỏe, không có triệu chứng bệnh gì.
110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi thanh niên (18-40 tuổi)
Hư chứng giai đoạn 2 là AH thấp dần, cơ thể vẫn khỏe, không có triệu chứng bệnh gì.
100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 60-70 là áp huyết ởtuổi thiếu niên (13–17 tuổi)
Hư chứng giai đoạn 3, có dấu hiệu mệt mỏi, đau nhức, chóng mặt, hồi hộp, yếu sức, ăn không tiêu…
95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60-120 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5-12 tuổi)
Hư chứng giai đoạn 4, có dấu hiệu cơ thể suy nhược, mà bác sĩ vẫn không tìm ra bệnh, mà thật ra bệnh sờ sờ trước mắt theo đông y là các tế bào trong cơ thể đang bị thiếu khí lực, thiếu máu, thiếu đường trầm trọng do 3 con số áp huyết mà môn KCYĐ gọi là máy đo sự sống con người, gía trị của số đo áp huyết mang ý nghỉa : Khí-Huyết-Đường, và để xác nhận rõ về đường thì đo đường huyết thấp sau khi ăn dưới 126mg/dL là không đủ đường chuyển hóa thức ăn.
Tại sao đông y tìm thấy ngay nguyên nhân bệnh là hư chứng mà tây y không tìm ra. Thật ra các bác sĩ cũng thấy áp huyết thấp và đường thấp, nhưng các ác tri thức dạy 2 bệnh áp huyết và đường huyết phải dùng thuốc hạ áp huyết và hạ đường huyết suốt đời, nên xem là bình thường. Vì thế các xét nghiệm máu càng ngày càng thấp nhưng vẫn nằm trong tiêu chuẩn, nhưng thật ra các bác sĩ vô trách nhiệm, không cảnh báo cho bệnh nhân biết cách ngăn ngừa đề phòng khi thấy kết quả thử máu càng rơi xuống thấp.
Thí dụ khi xét nghiệm chỉ số hồng cầu :
Chỉ số hồng cầu thường nằm trong khoảng từ 4.2 đến 5.9 triệu tế bào/cm3,
Xét nghiệm máu lần thứ 1, chỉ số hồng cầu 5 triệu, lần thứ 2 xuống 4.5 triệu, lần thứ 3 còn 4 triệu… bác sĩ cũng nói tốt, không có bệnh, lần thứ 5 hồng cầu còn 3.5 triệu, bác sĩ nói nghi ung thư, xét nghiệm lại lần thứ 6, bác sĩ nói : sorry, ông bà bị bệnh ung thư máu, trong khi đông y thấy trước bằng máy đo áp huyết khí lực oxy thấp dần, lượng máu thiếu dần đường thiếu dần, đo áp huyết chỉ còn 80-90/60-65mmHg nhịp tim 55-60 là thiếu đường là thời kỳ đang bị ung thư, vì khí lực hoạt động của hơn 2 ngàn tỷ tế bào chỉ còn 80-90mmHg, tổng số máu trong hàng 2 ngàn tỷ tế bào còn 60-65mmHg, tốc độ bơm máu chậm chỉ còn 55-60 là người lạnh, máu đặc, gây đau nhức, nếu châm kim nặn máu không còn máu và không có máu chảy ra, nặn thật lâu thì ra máu cục mầu đen.
Đa số các bệnh ung thư đều dấu hiệu bệnh như trên.
Các bệnh nhân nào xui xẻo không gặp được các bác sĩ có lương tâm cảnh báo, khi biết chúng ta sắp sửa bị ung thư, theo đạo Phật là chúng ta đang làm bạn với ác tri thức rồi.
Còn đông y thì khuyên bệnh nhân cần phải phục hồi sự sống cho tế bào đang thiếu glucose, thiếu máu, thiếu mỡ, cần phải ăn phở chay hay mặn, cần phải uống nước mía hay uống 12 thìa đường mỗi ngày hay 6 ly nước mía mỗi ngày, sau khi ăn tập khí công chuyển hoá đường và thức ăn biến thành máu, làm cho áp huyết tăng lên đúng tiêu chuẩn thì khỏi bệnh ung thư, khi kiểm chuứng áp huyết 2 tay lọt vào tiêu chuẩn tuổi khi đói, khi no, đường-huyết lọt vào tiêu chuẩn khi đói, khi no, nhiệt độ đo các đầu ngón tay lọt vào tiêu chuẩn 36.5-37.5 độ C, thử pH nước bọ từ acid pH4-5-6 trở vê tiêu chuẩn khỏi bệnh pH 7-8.
Cho nên tự mình theo dõi xen mình có bị bệnh ung thư và chữa khỏi bệnh ung thư hay không cần thử pH sau mỗi khi ăn, khi pH nước bọt sau khi ăn ngả về acid thì tế bào ung thư càng phát triển, khi pH ngả về kiềm tính thì tế bào ung thư tự bị chất kiềm hủy diệt, khi cơ thể có bướu không biết bướu lành hay dữ, cần thử pH ngả acid là bướu độc, ngả về kiềm là bướu lành chỉ là cục mỡ cục thịt cứng, không phải ung thư.
Ngoài ra theo đông y hư cái gì thì cần phải bổ cái ấy và kiểm chứng sau khi ăn hay uống thuốc, hay ngay cả dùng thực phẩm chức năng, khi theo dõi áp huyết, đường huyết, nhiệt kế, pH, trọng lượng cơ thể không thấy khí, máu, đường, nhiệt độ và pH không thay đổi thì những thứ thuốc hay thực phẩm chức năng, hay lá đu đủ, măng cầu, Fucoidin… đều là gạt người, gạo lức muối mè, thiền, không đem lại kết quả mà hậu qủa còn tệ hại hơn.
Tế bào đang đói khí, đói máu, đói đường, có thể nào châm cứu hay uống lá này lá kia, thuốc này thuốc kia, thực phẩm chức năng thứ này thứ kia, làm cho tế bào no được không, nếu có huyệt châm cứu làm ra đường ra máu, ra khí được, thì chúng ta khỏi cần đi chợ mua thức ăn và nấu ăn mất thời gian phiền phức.
3-Về câu hỏi 3 : Tôi có 3 thực chữa làm sao ?
Nếu chỉ nói là thực thì chúng ta phải xác nhận bằng máy đo áp huyết, máy đo đường huyết, nhiệt kế, đều phải cao, nhưng cao bên tay nào khi đo, và đo trước bữa ăn cao, hay sau bữa ăn cao, cách khám bệnh hư thực bằng máy đo áp huyết 2 tay và đường trước và sau bữa ăn là phương pháp độc đáo của môn Khí Công Y Đạo, từ đó khám phá ra bệnh hư thực của gan, hay hư thực của tỳ vị, và theo ngũ hành tương sinh tương khắc biết được diễn tiến của bệnh, và bệnh truyền kinh theo ngũ hành của đông y.
Như vậy 3 thực đo áp huyết cả hai bên tay, hay chỉ 3 thực bên gan, hay chỉ 3 thực bên bao tử, hay đo áp huyết ở cổ chân cũng bị 3 thực, 3 thực trước khi ăn hay sau khi ăn.
Đặc biệt hơn nữa những bệnh nan y đông y gọi là hư hàn giả nhiệt, hư nhiệt giả hàn, âm hư nội nhiệt, dương hư ngoại hàn, hay trong 3 thực là 3 thực hàn, hay 3 thực nhiệt, đều hiện rõ bằng con số chính xác không lầm lẫn.
Thí dụ :
1-Hư hàn giả nhiệt là áp huyết thấp so tiêu chuẩn tuổi là hư :
a-90/70mmHg mạch 60, số 90 là khí hư, mạch 60 là hàn, nhưng đo nhiệt kế bàn tay thì nóng 37 độ C, gọi là bệnh khí hư hàn giả nhiệt,
b-125/65mmHg mạch 60, số 65 là huyết hư, mạch 60 là hàn, nhưng đo nhiệt kế bàn tay thì nóng 37 độ C, gọi là huyết hư hàn giả nhiệt.
2-Hư nhiệt giả hàn là áp huyết thấp so với tiêu chuẩn tuổi là hư :
a-90/70mmHg mạch 95, số 90 là khí hư, mạch 95 là nhiệt nhưng đo nhiệt kế bàn tay thì lạnh dưới 35 độ c, thậm chí không bắt được độ, máy chỉ low, gọi là khí hư nhiệt giả hàn,
b-125/65mmHg mạch 95, số 65 là huyết hư, mạch 95 là nhiệt, nhưng đo nhiệt kế bàn tay lạnh dưới 35 độ C hay low, gọi là huyết hư nhiệt giả hàn, nhưng bên trong người lại rất nóng, thì đông y gọi là âm hư nội nhiệt.
3-Dương hư ngoại hàn :
90/70mmHg 60, 90 là khí hư là dương hư, mạch 60 là hàn, gọi là dương hư ngoại hàn.
4-Ba thực hàn :
150/100mmHg mạch 60, đo đường huyết cao trên 200mg/dL, khí lực 150 là một thực, 100 là huyết thực là hai thực, đường huyết đo cao là ba thực, nhưng mạch 60 là hàn, mới gọi là 3 thực hàn.
5-Ba thực nhiệt :
150/100mmHg mạch 90, đo đường huyết cao trên 200mg/dL, một thực 150 khí thực, 100 huyết thực, đường huyết cao 200 là ba thực, mạch 90 là nhiệt, gọi là 3 thực nhiệt.
III-NGUYÊN NHÂN UNG THƯ TỤY TẠNG.
Ngoài ảnh hưởng môi trường nhiễm hóa chất, thì có ba nguyên nhân chính gây ra ung thư tụy tạng là thuốc lá, rượu, và biến chứng của bệnh tiểu đường.
1-Ba nguyên nhân thuốc lá, rượu và biến chứng bệnh tiểu đường ảnh hưởng hư thực với ngũ hành thổ ra sao ?
a-Khói thuốc lá vào phổi tạo ra phổi nhiệt, tăng CO2 làm giảm oxy phổi, và làm teo các xoang phổi làm giảm lượng dự trữ oxy, thì công thức máu Fe2O3 bị thiếu oxy sẽ bị giảm hềng cầu và mất máu, như vậy là hành kim bị bệnh hư.
b-Rượu có tính hàn, và gan có chức năng giả̉i độc trong máu, do đó khi rượu vào máu, đi qua gan bị giữ lại chuyển thành các hạt mỡ, càng nhiều thì choán chỗ của tế bào gan, làm giảm quá trình oxy hóa acid béo ở gan tạo thành triglyceride và làm giảm tổng hợp và bài tiết lipoprotein ở gan, trở thành gan thực hàn là chai gan, xơ gan.
c-Biến chứng của tiểu đường :
Đầu tiên nguyên nhân tiểu đường do 3 thực nhiệt thì không bị ung thư, nhưng biến chứng trở thành thực hàn giả nhiệt hay 3 hư hàn, hay 3 thực hàn, mặc dù không hút thuốc hay uống rượu.
2-Nguyên nhân và dấu hiệu ung thư tụy tạng :
a-Nguyên nhân :
Tụy tạng thuộc bộ tiêu hóa, có chức năng phân hủy thức ăn để các tế bào trong cơ thể có thể hấp thụ và sử dụng. Một ống có tên gọi ống tụy nối tuyến tụy với đoạn đầu của ruột non (tá tràng). Tuyến tụy chứa hai loại tuyến: tuyến ngoại tiết và tuyến nội tiết.
Ung thư tụy xảy ra khi các tế bào trong tuyến tụy bắt đầu sản sinh tế bào bêta để điều chế ra insulin nội để tự động điều chỉnh cân bằng đường-huyết, sau mỗi bữa ăn hàng ngày vừa đủ để duy trì chức năng tiêu hóa không bị trở ngại, theo tiêu chuẩn khi đói đường-huyết từ 100-140mg/dl, sau khi ăn no, đường huyết từ 140-200mg/dL theo tiêu chuẩn Y Tế Thế Giới năm 1979.
Sau này ngành y hạ tiêu chuẩn đường huyết xuống thấp không có tiêu chuẩn no sau khi ăn, chỉ giới hạn đường huyết dưới 126mg/dL hay dưới 7mmol/l., nên ai có đường huyết cao trên 7mmol/l, thì tây y cho rằng đường huyết cao do tuyến tụy sản xuắt không đủ insulin, nên ai có đường huyết cao như trong tiêu chuẩn no từ 140-200mg/dl là phải tiêm insulin bên ngoài vào cơ thể, thì insulin ngoại ức chế insulin nội, trong khi tuyến tụy vẫn khỏe mạnh, vẫn sản xuắt tế bào bêta như cũ mà không được tiêu thụ dẫn đến tích lũy vượt qúa mức tạo thành khối u phát sinh từ biểu mô của tuyến tụy tây y gọi là carcinoma diễn tiến 4 giai đoạn ung thư, giai đoạn 1còn nằm trong tuyến tụy khi chưa lan rộng, kích thước khối u dưới 2cm, không có triệu chứng gì, giai đoạn 2 khối u dưới 4cm các mô lân cận bị xâm lấn nhưng chưa chạm đến mạch máu, giai đoạn 3 khối u lớn hơn 6cm xâm lấn vào mạch máu rồi di căn tứi các hạch bạch huyết và các cơ quan lân cận, giai đoạn cuối khối u phát triển lớn xâm phạm đến gan, phổi…
b-Các triệu chứng chính của ung thư tuyến tụy bao gồm:
Đau bụng, có thể lan ra sau lưng
Sụt cân không rõ nguyên nhân, thường đi kèm với chán ăn, chướng bụng, đầy hơi
Tiêu chảy phân lỏng, màu sậm hoặc tiêu ra phân mỡ nổi trên mặt nước
Vàng da, và tròng mắt đối với khố u đầu tụy.
Ngứa da lòng bàn tay, bàn chân
Phân nhiều mỡ, nổi trên nước
Các khối u ở đầu tụy có xu hướng gây ra nhiều triệu chứng hơn so với những vị trí ở thân hoặc đuôi tụy – điều này là do các khối u ở đầu tụy có thể chèn ép vào ống mật hoặc ống tụy và gây ra các tình trạng như vàng da.